Quân đội quân phiệt Thời đại quân phiệt

Sắt tốt không dùng làm móng ngựa, người tốt không ai đi lính

—Ngạn ngữ Trung Quốc

Nhiều binh lính trong quân đội quân phiệt là những tên cướp từng phục vụ cho một chiến dịch rồi lại quay trở lại làm cướp khi chiến dịch kết thúc. Một chính trị gia đã nhận xét rằng, cướp trở thành binh lính khi các quân phiệt gây chiến với nhau, và khi chiến tranh kết thúc, lại quay trở lại làm cướp.[24] Quân đội quân phiệt thường xuyên hãm hiếp nhiều phụ nữ hoặc ép họ làm nô lệ tình dục.[25] Chế độ cướp bóc được thể chế hóa vì nhiều quân phiệt thiếu tiền để trả cho quân đội. Một số quân phiệt bắc cóc và gửi yêu cầu kèm theo ngón tay bị chặt đứt của con tin, như một cách thúc giục người nhà nhanh chóng giao tiền chuộc.[23]

Binh lính quân phiệt đang tập luyện với những thanh đao vào khoảng những năm 1920. Một số lực lượng quân đội quân phiệt, đặc biệt là ở miền nam Trung Quốc, được trang bị kém, nhận lương thấp và chu cấp tồi tệ, thường thiếu cả những nhu yếu phẩm cơ bản, chẳng hạn như súng, đạn dược và thực phẩm.[26]

Bên cạnh những tên cướp, binh lính phục vụ trong quân đội quân phiệt có xu hướng lấy từ chế độ quân dịch làng xã. Họ có thể phục vụ trong một đội quân, bị bắt, sau đó gia nhập đội quân của chính những kẻ đã bắt giữ mình trước khi lại bị bắt thêm một lần nữa. Các quân phiệt thường tích hợp luôn tù nhân vào lực lượng quân đội của họ; ít nhất 200.000 người phục vụ trong lực lượng quân đội của Ngô Bội Phu là tù nhân. Khảo sát tại một đồn trú quân phiệt vào năm 1924 cho thấy 90% binh lính mù chữ. Năm 1926, sĩ quan quân đội Hoa Kỳ Joseph Stilwell kiểm tra một đơn vị quân phiệt và quan sát thấy 20% binh lính chỉ cao dưới 1,37 m, có tuổi trung bình là 14 và hầu hết đi chân đất. Stilwell gọi "đại đội bù nhìn" này là một đơn vị quân sự vô giá trị. Một vị khách từ quân đội Anh thì nhận xét rằng, với điều kiện cần là một lãnh đạo thích hợp, những người đàn ông ở miền bắc Trung Quốc là "nguyên liệu thô phương Đông tốt nhất với vóc dáng vô song, và một thể chất sắt thép." Tuy nhiên, thường không có nhiều các đơn vị người miền bắc chất lượng.[27]

Tài chính

Trương Tác Lâm và hai đứa con trai đều mặc những bộ đồng phục đắt đỏ

Năm 1916, có khoảng nửa triệu binh lính ở Trung Quốc. Đến năm 1922, con số trên đã tăng gần gấp ba lần, sau đó lại tăng gấp ba lần nữa vào năm 1924; vượt quá khả năng chu cấp của các quân phiệt. Ví dụ, Nguyên soái Trương Tác Lâm, cai trị Mãn Châu công nghiệp hóa, thu được 23 triệu đô la tiền thuế vào năm 1925 trong khi phải chi khoảng 51 triệu đô la. Quân phiệt ở những khu vực khác thậm chí còn khốn đốn hơn. Ly kim là một con đường gây quỹ, loại thuế này thường bị xung công và gây thiệt hại kinh tế. Ví dụ, ở tỉnh Tứ Xuyên, có 27 loại thuế muối khác nhau và một chuyến tàu chở giấy đi trên sông Dương Tử đến Thượng Hải, đã bị các quân phiệt đánh thuế tới 11 lần, với tổng tiền thuế lên đến 160% giá trị chuyến tàu. Một quân phiệt đã đánh thuế 100% đối với hàng hóa đường sắt, bao gồm cả thực phẩm, mặc dù nạn đói đang hoành hành ở tỉnh của ông ta. Thuế trên tem và muối của chính quyền trung ương thường do chính quyền khu vực thu. Bất chấp sự giàu có của Mãn Châu và sự hỗ trợ của quân đội Nhật Bản, Trương Tác Lâm vẫn phải tăng thuế đất lên 12% từ năm 1922 đến năm 1928 để chi trả cho các cuộc chiến của mình.[28]

Quân phiệt yêu cầu các khoản vay từ ngân hàng. Ngoài thuế, cho vay và cướp bóc, nguồn thu chính còn đến từ hoạt động kinh doanh thuốc phiện, quân phiệt bán quyền trồng và buôn thuốc phiện trên địa bàn tỉnh của họ cho các tập đoàn xã hội đen. Mặc cho lập trường chống thuốc phiện bề ngoài, Phùng Ngọc Tường, "Tướng Cơ đốc", kiếm được khoảng 20 triệu đô la mỗi năm từ việc bán thuốc phiện. Lạm phát cũng là một cách quân phiệt chi trả cho binh lính của mình. Vài quân phiệt chỉ đơn giản là vận hành máy in tiền, một số còn dùng máy nhân bản để phát hành đồng đô la Trung Quốc mới. Quân phiệt cai trị Hồ Nam đã in 22 triệu đô la Trung Quốc, với một lượng bạc dự trữ chỉ đáng giá 1 triệu đô la Trung Quốc, trong vòng một năm. Cùng trong năm đó, Trương Tông Xương ở Sơn Đông cho in 55 triệu đô la Trung Quốc, với một lượng bạc dự trữ chỉ trị giá 1,5 triệu đô la Trung Quốc. Nguyên soái mù chữ Trương Tác Lâm, người tham gia in liều lĩnh đô la Trung Quốc, không hiểu rằng chính mình mới là người gây ra lạm phát ở Mãn Châu, và cách khắc phục của ông ta chỉ đơn thuần là triệu tập những thương nhân hàng đầu Thẩm Dương, buộc tội họ tham lam vì luôn luôn tăng giá hàng hóa, có năm người trong số đó được chọn ngẫu nhiên để xử bắn công khai, nhằm răn đe những người còn lại.[29]

Renault FT của quân phiệt Phụng hệ trong Chiến dịch Bắc phạt

Mặc cho luôn có nhu cầu tiền bạc, các quân phiệt sống rất xa hoa. Trương Tác Lâm sở hữu viên ngọc trai lớn nhất thế giới, trong khi Ngô Bội Phu có cho mình viên kim cương lớn nhất thế giới. "Đại soái" Trương Tác Lâm sống trong một cung điện xa hoa ở Thẩm Dương cùng năm bà vợ, sách Nho học củ, một hầm đầy rượu vang Pháp, và cần tới bảy mươi đầu bếp trong bếp để phục vụ đủ thức ăn cho ông, các bà vợ và những vị khách. Trương Tông Xương, "Tướng thịt chó", ăn một bữa tối gồm bốn mươi món Bỉ. Một nhà báo Mỹ đã mô tả về bữa tối cùng Trương Tông Xương: "Ông ấy mời tôi một bữa tối. Một lượng lớn đồ ăn xa hoa tội lỗi được dọn lên bàn ở một đất nước đói khát. Có cả sâm banh Pháp lẫn rượu mạnh."[15]

Trang bị

Các quân phiệt mua súng máy và đại pháo từ nước ngoài, nhưng những binh lính thất học và mù chữ của họ không thể vận hành hoặc bảo quản những loại vũ khí hiện đại này. Năm 1923, một lính đánh thuê người Anh đã phàn nàn rằng Ngô Bội Phu có khoảng 45 khẩu đại pháo châu Âu không thể hoạt động vì không được bảo dưỡng đúng cách.[30] Trong trận Urga, quân đội của tướng Từ Thụ Tranh, đã chiếm được Ngoại Mông, bị tấn công bởi một liên quân Nga–Mông Cổ do tướng Roman von Ungern-Sternberg chỉ huy. Người Trung Quốc có thể đã ngăn chặn được Ungern nếu biết bắn súng máy sao cho đúng cách, điều chỉnh được độ giật hướng lên khi khai hỏa. Họ không làm điều này và để đạn bay quá xa khỏi mục tiêu. Việc không biết sử dụng súng máy hợp lý đã khiến người Trung Quốc phải trả giá đắt: sau khi chiếm Urga vào tháng 2 năm 1921, Ungern tiếp tục điều quân Cossack của mình cùng kỵ binh Mông Cổ truy lùng tàn quân của Từ Thụ Tranh khi họ đang cố tháo chạy về phía nam trên đường trở về Trung Quốc.[31]